Vận dụng phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII
7:25' 2/5/2017
Phong cách Hồ Chí Minh và công tác xây dựng đảng có mối liên hệ,
gắn kết chặt chẽ với nhau. Học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh cũng có
nghĩa là chúng ta đang thực hiện công tác xây dựng đảng thiết thực nhất, khoa
học nhất.
Nếu phong cách Hồ Chí
Minh là một chỉnh thể nhất quán có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ trong
mọi lĩnh vực sống và hoạt động; là giá trị cốt lõi về tính nhân văn trong tư
tưởng, đạo đức của Người, thì công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chứa đựng sâu
sắc những chuẩn mực giá trị về đạo đức, văn minh của một Đảng cầm quyền; trở
thành những nguyên tắc trong mỗi hành động, lời nói, cử chỉ, việc làm và sinh
hoạt hằng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp. Từ đó, giúp cho cán bộ, đảng viên ngày càng có phẩm chất cách mạng,
bản lĩnh chính trị, tư duy khoa học, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Vận dụng phong cách Hồ
Chí Minh trong công tác cán bộ nói chung và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
nói riêng là vận dụng những giá trị cốt lõi, tính nhân văn được kết tinh từ
những đặc trưng tiêu biểu Hồ Chí Minh vào cuộc sống của mỗi cán bộ, đảng viên
và mỗi tổ chức, cơ sở đảng. Điều đó, trái hẳn với việc đòi hỏi phải làm theo
như kiểu rập khuôn máy móc; càng không phải là cách học hình thức, qua loa, mà
là đòi hỏi sự gương mẫu rất cao độ, rất sáng tạo và rất cầu thị của mỗi cán bộ,
đảng viên; trở thành yêu cầu cấp thiết trong đời sống chính trị - xã hội hiện
nay của Đảng ta và nhân dân ta.
Đại hội lần thứ XII
của Đảng khi đặt yêu cầu tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” đã nhấn mạnh: Tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính
quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi
ích nhóm”, nói không đi đôi với làm. Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII
cũng nêu rõ: “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng
lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu”. Theo đó, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII cũng
đặt ra yêu cầu: “Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016
của Bộ Chính trị”.
Như vậy, chúng ta thấy
rõ tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng, đạo đức nói chung và phong cách
Hồ Chí Minh nói riêng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xét về nội dung
của phong cách Hồ Chí Minh thì không nằm ngoài những phẩm chất, tiêu chí trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đề ra.
Những điểm nổi bật
trong phong cách của Hồ Chí Minh được thể hiện trên các bình diện lớn là: 1) Phong cách về
tư duy, trước hết là tư duy
về phép biện chứng duy vật, xuất phát từ thực tiễn để trở lại biến đổi thực
tiễn với những đặc trưng, như phong cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện
đại; phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo; phong cách tư duy hài hòa,
uyển chuyển, có lý có tình trong mọi hoạt động. 2) Phong cách
làm việc, được thể hiện trước
hết ở phong cách lãnh đạo; làm việc khoa học và luôn đổi mới, sáng tạo. 3) Phong cách
diễn đạt, thể hiện ở cách nói,
cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực; diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc,
trong sáng có lượng thông tin cao; diễn đạt sinh động, gần gũi với cách nghĩ
của quần chúng, gắn với những hình ảnh, sự ví von, so sánh cụ thể; diễn đạt
luôn luôn biến hóa, nhất quán mà đa dạng. 4) Phong cách ứng xử, thể hiện ở sự khiêm tốn, nhã nhặn, lịch
thiệp; chân tình, nồng hậu, tự nhiên; linh hoạt, chủ động, biến hóa. 5) Phong cách
sống, thể hiện ở sự cần,
kiệm, liêm, chính; sống hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn văn hóa Đông - Tây; đồng
thời, tôn trọng quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên.
Những nội dung căn bản
ấy đã hợp thành phong cách độc đáo về tư tưởng, đạo đức của Người, trở thành
tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của nhân dân ta.
Đối chiếu với nội dung
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay được thể hiện trong Nghị quyết Trung
ương 4, khóa XII, nhất là với 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội
bộ, cho thấy không một biểu hiện nào không nằm trong những cảnh báo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Và cũng không một biểu hiện nào mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh không nhắc nhở cán bộ, đảng viên và Đảng ta, nhất là đối với
những vấn đề tiêu cực có thể nảy sinh trong nội bộ Đảng, chính quyền và trong
xã hội.
Ở những thời điểm lịch
sử lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh không dùng trực tiếp các khái niệm “suy thoái” tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ, nhưng Người đã đề cập đến rất nhiều căn bệnh khác nhau. Có thể nói những
căn bệnh đó đã được thể hiện trong cảnh báo từ rất sớm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh qua tác phẩm “Đường cách mệnh” được viết trong thời kỳ vận động thành
lập Đảng từ những năm 1925 - 1927. Hồ Chí Minh đặt ra “Tư cách người cách
mệnh”: 1) Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà
không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị
công, vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ
nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật; 2) Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể
thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người;
3) Làm
việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ
càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể. Những chỉ dạy đó đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Và, điều đặc biệt là chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện
nó trong mỗi hành động, mỗi việc làm cho đến phút cuối cùng của cuộc đời. Người
trở thành hiện thân của “tư cách người cách mệnh” và là tấm gương mà nhiều
người khác có thể noi theo để làm người cách mạng và người dân tốt hơn. Phong
cách nói
đi đôi với làm trở thành một yêu cầu,
một phương châm lớn và Người đã làm điều đó một cách cần mẫn, tinh tế, sáng tạo
và trọn vẹn.
Để vận dụng phong cách
Hồ Chí Minh vào thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, cần thực hiện một
số điểm sau:
Một là, không ngừng học tập,
để nhận thức sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và những giá trị to lớn của
phong cách Hồ Chí Minh, làm cho phong cách của Người thật sự thấm sâu vào công
tác cán bộ, trở thành nền tảng tinh thần để mọi cán bộ, đảng viên vận dụng sáng
tạo vào công tác được giao. Mọi cán bộ, đảng viên phải thấy rõ ý nghĩa và tầm
quan trọng của việc học tập và làm theo phong cách của Người, gắn với công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Hai là, bám sát nội dung
phong cách Hồ Chí Minh, bám sát những giá trị cốt lõi trong phong cách của
Người được thể hiện sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hoá kỳ
diệu trong hoạt động hằng ngày để vận dụng vào đời sống, công tác và ứng xử xã
hội. Đó là: Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận
với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới
nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hoá, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm
tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm, đi vào
lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống
thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu
gương... Từ đó, cụ thể hóa và xác định những yêu cầu cơ bản về phong cách làm
việc của từng loại công việc, từng đối tượng cán bộ cho phù hợp, tránh giáo
điều, rập khuôn máy móc.
Ba là, từ nội dung phong
cách Hồ Chí Minh, soi rọi vào những việc làm hiện nay của mỗi cán bộ, đảng
viên; soi rọi vào những biểu hiện suy thoái mà Nghị quyết Trung ương 4 đã nhận
diện, vừa để “sửa mình”, “sửa đổi lối làm việc”, chống lại các quan điểm sai
trái, thù địch nhằm hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết, cần xóa bỏ tư
tưởng “thần thánh hóa”; hoặc cho rằng phong cách làm việc của Hồ Chí Minh là
phong cách của một “bậc đại trí, đại nhân, đại dũng”, của một "nhà chính
trị chuyên nghiệp"; hoặc sự giản dị, thanh bạch của Hồ Chí Minh là “cuộc
sống khổ hạnh theo lối tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật” rất
khó học tập, làm theo. Cần phải nhận thức rõ hơn những giá trị lớn lao trong
phong cách Hồ Chí Minh là phong cách của một nhà khoa học chân chính, luôn
thống nhất giữa tính đảng, tính chính trị với tính khoa học trong mỗi lời nói,
việc làm và quan hệ công tác.
Bốn là, đưa việc học tập và
làm theo phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
của Đảng và của cấp ủy, phải trở thành nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi
bộ, gắn với các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn
vị; gắn với việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng
hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Lấy kết quả vận dụng
phong cách Hồ Chí Minh trong công tác làm một trong những tiêu chuẩn đánh giá
cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng hằng năm.
TS. BÙI THẾ ĐỨCPhó Trưởng Ban Tuyên giáo
Trung ương
Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng – www.xaydungdang.org.vn